Tết đến: Nguyện cầu trăm họ được an bình.
Năm qua: cảm tạ thiên ân luôn phù hộ
Tết đến: cầu xin Thượng đế mãi độ trì.
Đinh Mão mang đi cơn gió lạnh
Canh Thìn góp lại chút tình nồng.
Xuân Hiệp Nhất
Lại một tân niên đến nữa rồi
Xuân
lại về trên tha hương và nơi cố quận. Người người chúc nhau năm mới nhiều ân lộc
của Trời, của thiên nhiên, của lòng người. Tục lệ ăn Tết đã thấm nhuần vào xã
hội Việt từ ngàn xưa. Biết bao văn gia, nghệ sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ … đã để
hồn lai láng qua những tác phẩm nghê thuật nổi tiếng.
Cõi lòng nhung nhớ mãi không thôi.
Ai nơi cố quận mừng Xuân đến,
Kẻ tại quê người xúc tuyết rơi.
Một nhánh mai vàng cho đúng phép
Vài ly rượu nhạt để quên đời.
Ngồi đây mà nhớ ngày xưa ấy,
Biết đến bao giờ Tết thật tươi?
(Canh Ngọ - 1990)
Trong cảnh tha
hương, Xuân cũng mang đến nhiều nhớ nhung ray rứt, những bịn rịn không muốn rời
xa quá khứ như lời thi sĩ Hà Liên Tử:
“Trời nước miên
man sầu viễn xứ,
Cũng không thiếu
những học giả muốn đi vào tận trong cái nhụy Xuân sâu thẳm để tìm hiểu ý nghĩa
của thời gian mở đầu một năm mới để sống trọn, hưởng trọn những nét đẹp tinh túy
nhất của mùa Xuân.
Lòng nghe chua
xót mộng trùng dương …
Đêm nay Xuân đến
ngoài khơi thẳm,
Sóng nước thêm
ngùi kiếp gió sương!
Xuân là gì? Thưa
Xuân là tất cả, hiện diện từ cõi vũ trụ hoang sơ và mông mênh không bến bờ cho
đến tận trong sâu thẳm nhất của tiểu vũ trụ con người. Xuân là khởi đầu của nhịp
thở thiên nhiên và cũng là cao điểm, cùng đích của giòng hồi sinh vạn vật, …. Để
định nghĩa Xuân có lẽ không bao giờ có đủ viết mực để diễn tả vì mỗi lần Xuân
đến là một khác biệt với Xuân xưa và sẽ không giống như Xuân sắp đến.
Trong muôn ngàn
hồng tía của chữ Xuân, chỉ xin được chia sẻ một góc cạnh nhỏ của danh từ huyền
diệu này: Xuân hiệp nhất.
Trước hết chúng
ta cần minh định ý nghĩa của hiệp nhất. Hiệp nhất không nhất thiết phải giống
nhau nhưng là chấp nhận khác biệt, đa diện. Hiệp nhất không đòi hỏi toàn bộ các
thành phần đều chung một bản sắc: ngôn ngữ, màu da, tôn giáo, học vấn, nghề
nghiệp, khả năng … Hiệp nhất là cùng một lòng, một ý, không phân biệt ý thức hệ,
môi trường, quá khứ, ngay cả tương lai để cùng chung xây dựng hoặc đạt đến một
mục đích hay lý tưởng chung. Một người Việt Nam
và một người Mỹ vẫn có thể hiệp nhất với nhau để hùn vốn lập nên một nghiệp vụ
hay thương vụ trong một vùng nào đó. Cầu thủ trong các đội bóng gồm đủ mọi màu
da nhưng luôn hiệp nhất để cùng nhau góp sức đạt chiến thắng. Hiệp nhất cũng
không bắt buộc phải thấy nhau hay cùng sống một thời với nhau vì bản tính hiệp
nhất vượt không gian và thời gian. Chúng ta hiệp nhất với những người thân
thương ruột thịt ở bên kia bờ đại dương (=cách biệt không gian) trong những ngày
Tết để cầu cho ông bà tổ tiên (=cách biệt thời gian).
Xuân
hiệp nhất trong gia đình
Trong những ngày
Tết, tất cả mọi phần tử của một đại gia đình đều tụ họp về, dù ở xa nơi đâu. Mấy
năm gần đây, người Việt tha hương cũng đã cố gắng thu xếp công việc làm ăn hay
việc học hành của con cái để về quê ăn Tết. Những người ở lại, dù không đủ khả
năng làm một chuyến viễn du nửa quả địa cầu, vẫn không quên hướng lòng về quê
cha đất tổ và những người thân thương bằng cách này hay cách khác: gởi thiệp,
quà biếu, gọi điện thoại …
Trong những ngày
đầu Xuân này, con cái quây quần bên ông bà, cha mẹ để chia sẻ niềm vui ba ngày
Tết, đồng thời tỏ lòng tri ân các bậc sinh thành đã vất vả suốt năm và thầm
nguyện ước mong những ngày tháng sắp tới sẽ cùng nhau sát cánh để yêu thương
nhau hơn, đùm bọc nhau hơn. Trên khuôn mặt rạng rỡ niềm vui, ta đọc thấy tâm
tình quảng đại tha thứ: mọi người cùng một lòng, một ý, bỏ hết những tị hiềm cá
nhân để cùng nhớ đến cội nguồn chung. Lợi dụng những giây phút đoàn tụ hiếm hoi
trong những lúc thanh vắng, khi khách khứa đã ra về, cả gia đình quây quần bên
mâm cơm, cùng nhau chia sẻ những lo âu, phiền muộn trong năm cũ.
Tết Việt đúng là
Tết hiệp nhất gia đình.
Xuân
hiệp nhất trong xã hội
Vì Xuân là ngày
lễ tiết của cả một dân tộc, tình cảm lai láng của mùa Xuân cũng tràn ra khắp
nơi, từ những vùng núi xa xôi hẻo lánh xuống tận đồng bằng nhộn nhịp, xuyên qua
các lũy tre làng mát mẻ, đồng ruộng bao la, trải dài đến các thị thành đô hội.
Mọi người, bất luận sang hèn, giàu nghèo, ai cũng cố gắng góp phần vào việc
chung như trang hoàng, dọn dẹp sạch sẽ nhưng nơi thờ phụng công cộng: chùa
chiền, nhà thờ, thánh thất … Mọi người thấy lòng mình tự nhiên sảng khoái hơn,
vui tươi hơn, trên môi luôn nở nụ cười và thấy ai cũng đẹp, cũng xinh, cũng dễ
thương, đồng thời cảm thấy mình bao la hơn, quảng đại hơn …
Những ngày cuối
năm, nợ nần lo trả. Nợ đây không chỉ là nợ tiền, nợ bạc, mà còn là nợ ân tình.
Nếu có mất lòng ai trong năm cũ thì đầu năm, cố gắng đi thăm hỏi để chúc Tết,
gọi là đi xin cái lộc hòa khí cho suốt cả năm.
Xuân
hiệp nhất trong thiên nhiên
Mùa Xuân hiệp
nhất thiên nhiên lại vì Xuân là khởi đầu, tuôn ra cuồn cuộn nguồn sinh lực chung
cho mọi loài. Xuân là gì nếu không phải là vạn vật hài hòa, con người như hiệp
nhất với vũ trụ, với cây cỏ, hoa lá, với tha nhân, cõi lòng thanh thản, vui
tươi, tràn trề sức sống … Xuân cũng là nguồn của mọi hiệp nhất và cũng là chung
điểm của mọi hiệp nhất, vì sau một năm, vạn vật như chết lặng trong mùa đông
băng giá, nay hồi sinh, trở nên ấm áp, cùng hấp thụ ánh nắng vàng tươi của sự
sống mới, một khí ban mai sảng khoái, trong lành …
Mùa
Xuân Hiệp Nhất theo Thần học Công giáo
Xin trích ra đây
định nghĩa về Hiệp Nhất trong Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh (dịch từ bản tiếng
Pháp, chữ UNITÉ):
“Vũ
trụ trong cái đa dạng tuyệt vời chính là công trình của Thiên Chúa mà ý định
được khải lộ qua lệnh truyền ban cho người nam và người nữ trong những ngày đầu
tạo dựng: Hãy sinh sản ra nhiều, làm đầy mặt đất và thống trị nó (Khởi Nguyên 1,
28). Qua công trình sáng tạo của Thiên Chúa, ta thấy sự kết hợp giữa đa dạng và
hiệp nhất. Để tạo vật đạt đến sự hiệp nhất dưới quyền làm chủ của mình, con
người phải tăng số, và để được tăng số, người nam phải thực hiện sự hiệp nhất
trong tình yêu với người nữ (Khởi Nguyên 2,23 ss). Nhưng để thành toàn chương
trình này, con người phải luôn luôn hiệp nhất với Thiên Chúa, nhìn nhận sự lệ
thuộc của mình qua lòng trung thành tín cẩn.
Qua
đó, ta thấy rằng sau khi Adong và Evà phạm tội, con người đánh mất tình trạng
hiệp nhất với Thiên Chúa (trốn mặt), tha nhân (đổ lỗi cho nhau), vạn vật (đổ mồ
hôi mới có ăn) và chính mình (tự cảm thấy xấu hổ vì khỏa thân). Câu chuyện tháp
Babel cũng nói lên sự kiện con người đánh mất sự hiệp nhất trong đại gia đình nhân
loại vì kiêu căng, tự đại (KN 11,9).
Từ khước sự
trung thành này chính là căn tội: con người đã phạm tội đó để được ngang hàng
với Thiên Chúa, điều này dẫn đến việc phủ nhận Ngài là Thiên Chúa độc nhất. Như
thế, con người đã tự tách lìa khỏi Đấng là Tình Yêu và là cội nguồn của hiệp
nhất. Từ việc chia tách này kéo theo những chia rẽ khác đã phá hủy sự hiệp nhất
của hôn nhân bằng việc ly dị và đa thê (KN 4,19; Đệ Nhị Luật 24, 1), sự hiệp
nhất giữa anh em (Cain ganh tị và giết Abel, KN 4, 6 …)”
Sau này tiên tri
Isaia vẽ ra viễn cảnh của thời Thiên Sai tức là thời của Đấng Cứu Thế hay là mùa
Xuân Cứu Độ: con người hiệp nhất lại với vũ trụ, với tạo vật qua hình ảnh “sói
sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sống
chung hòa bình; con trẻ sẽ chăn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một
máng; các con của chúng sẽ nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ
khô, trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ vừa thôi bú sẽ thọc
tay vào hang rắn lục. Các thú dữ ấy sẽ không làm hại ai, không giết chết người
nào khắp núi thánh của Ta” (Is 11,8)
Rồi Đức Kitô đến
để mang lại hiệp nhất: “Xin cho chúng nên một như Cha và Con là một” (Gioan
17,22). Cùng với biến cố Hiện Xuống (mùa Xuân của Giáo hội), như một sửa sai cho
sự kiện tháp Babel, ngôn ngữ không còn là chướng ngại vật chia rẽ con người vì
tất cả đều hiệp nhất trong cùng một Thần Khí và một đức Tin (CVTĐ 2,5-13).
Kết luận:
Hiệp nhất là đặc
tính của Xuân dân tộc. Hiệp nhất là sự thật đang diễn ra trong Giáo hội. Hiệp
nhất là viễn ảnh của ngày cánh chung. Hiệp nhất là mục đích của Chúa Kitô khi
Ngài đến trần gian. Hiệp nhất là sứ mạng của Giáo hội cho đến ngày viên mãn. Sau
cùng hiệp nhất cũng chính là đặc tính của mùa Xuân vĩnh cửu nơi thiên quốc ngàn
đời, nơi đó không cần đức Tin hay đức Cậy (hy vọng), nhưng chỉ còn đức mến là
nguyên nhân và kết quả của hiệp nhất (xx. 1 Cor 13,8-13).
Xuân mang đến
nhiều ân huệ của Trời, của thiên nhiên, của vạn vật, của người với người. Và
Xuân cũng mang đến tâm tình hiệp nhất. Với Xuân hàng rào ngăn cách phải hạ xuống
để con người gần lại với nhau hơn. Vì thế, trong tâm tình nô nức sửa soạn tết
Nguyên Đán, mỗi một người trong chúng ta hãy cùng một lòng một ý, không phân
biệt tuổi tác, chức phận, khả năng cũng như nghề nghiệp. Hãy gạt ra một bên
những bất đồng chính kiến, những dị biệt tư tưởng, sở thích để cùng hiệp nhất
yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng cộng đồng mình đang sống. Có như thế, chúng
ta mới có thể hưởng được một mùa Xuân đầy đủ ý nghĩa vì dù dưới bất cứ nhãn quan
nào hay thời đại nào, Xuân cũng là hiệp nhất và nơi đâu có hiệp nhất, ở đó có
mùa Xuân, cho dù nhiều khi Xuân đến muộn.
New
Jersey, Xuân Đinh Sửu 1997 (Đặc san Xuân 1997 – CĐ CG VN Metuchen)
Người Công
Giáo VN ăn Tết ra sao?
Nhân dịp Xuân
về, người viết xin được trình bày vài nét chấm phá về cách thức người Công giáo
Việt Nam
mừng Tết Nguyên Đán. Mỗi một tôn giáo tại Việt Nam đều giữ những tục lệ cổ
truyền chính yếu trong ngày Tết dân tộc như đón giao thừa, đốt pháo (ngày xưa),
mừng tuổi, lì xì, hái,lộc, nầu bánh chưng, làm mứt, … Những tục lệ đó không thể
tách rời khỏi tinh thần của ba ngày Tết. Người Công giáo đã khéo léo đem niềm
tin của mình hòa hợp với những giá trị cổ truyền đặc trưng của dân tộc, nhất là
trong những ngày đầu Xuân.
Trước hết, chiều
30 Tết, hay nếu được thì sau 10 giờ tối, cho dù bận bịu đến đâu, mọi người đều
cùng nhau đến nhà thờ để dâng Thánh lễ Tạ Ơn Cuối Năm (lễ Giao Thừa). Sau đó thì
ai về nhà nấy để đón giao thừa trong gia đình. Có nhà còn giữ tục lệ mọi người
quây quần đọc kinh ngay lúc 12 giờ đêm mặc cho ngoài đường pháo đã bắt đầu nổ
vang.
Sáng
mồng Một Tết tất cả mọi người
đều đi dự Thánh Lễ Đầu Năm, cầu cho năm mới được thái hòa. Nhà thờ đã được trang
hoàng với một nhánh hay cả một cây mai thật, nở đầy hoa vàng (Những vùng phía
bắc Việt Nam thì chưng hoa đào). Một lư hương với hai ngọn nến đỏ cũng được đặt
ngay trước bàn thờ dâng lễ. Bộ lư này nay đã phổ thông trong hầu hết các thánh
đường Công giáo cho các thánh lễ ngày Chúa Nhật trong năm. Có nhà thờ thì dùng
hương bột, có nhà thờ thì dùng một bó nhang tiểu hoặc ba cây nhang đại. Thánh lễ
bắt đầu bằng nghi thức niệm hương. Các bài thánh ca về Xuân đã được tập dượt
hàng tháng trước Tết nay vang lên rộn ràng rung chuyển cả ngôi thánh đường.
Chuông trống cũng góp phần long trọng trong các ngày lễ Tết. Kết thúc Thánh lễ
là những bài chúc Tết cho mọi người.
Có những xứ đạo
còn giữ tập tục Mừng Tuổi Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Hài Đồng Giêsu trong
ngày mồng Một. Sau này, khoảng năm 1977, có thêm thông lệ Hái Lộc Lời Chúa: mỗi
gia đình được nhận một câu Lời Chúa trích trong Kinh Thánh để đem về và chưng
trang trọng một nơi nào đó trong nhà, để cả gia đình sống tinh thần Lời Chúa đã
được ban cho suốt cả năm. Đã không thiếu trường hợp nhiều cá nhân hay cả gia
đình thay đổi cách sống một cách tích cực sau khi nhận lãnh câu Kinh Thánh nầy.
Ngày
mồng Hai Tết,
mọi người tiếp tục đến nhà thờ dâng lễ cầu nguyện cho những người quá cố. Tùy
theo điều kiện cho phép, có xứ còn tổ chức Thánh Lễ tại nghĩa địa riêng của giáo
xứ. Thật là cảm động khi người sống và người quá vãng gần gũi nhau trong khung
cảnh trang nghiêm, giữa tiếng chiêng trống dặt dìu và khói trầm hương nghi ngút,
đất trời như hòa hợp cùng nhau, kẻ quá cố như hiện diện để nhắc nhớ người còn
sống hãy sống đúng tinh thần bác ái của đạo và phí khách hiên ngang của tổ tiên.
Ngày
mồng Ba Tết, người Công giáo
lại đến nhà thờ để cùng dâng Thánh Lễ cầu cho mùa màng được thuận tiện, công
việc làm ăn được phát đạt trong suốt cả năm. Các vị lãnh đạo tinh thần cũng
thường lấy ngày này để đi mừng tuổi những vị lãnh đạo trong các tôn giáo bạn hầu
giữ vững tình hiếu hòa và đoàn kết trong địa phương.
Trước Tết, có
giáo xứ còn tổ chức lạc quyên những món quà Tết để mang đến ủy lạo những gia
đình túng thiếu do giáo dân và các nhà hảo tâm địa phương đóng góp.
Riêng về ba ngày
lễ Đầu Năm thì người Công Giáo cử hành để kính Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm
cốt yếu của đức Tin Công Giáo): Đức Chúa Cha (mồng Một), Đức Chúa Con (mồng Hai)
và Đức Chúa Thánh Thần (mồng Ba).
Dĩ nhiên người
Công Giáo vẫn không quên tập tục mừng tuổi dân tộc theo thứ tự: Mồng Một Tết Cha
(bên nội), mồng Hai Tết Mẹ (bên ngoại), mồng Ba Tết Thầy.
Tinh thần sống
đức Tin Công Giáo ngay giữa lòng dân tộc (và ngược lại, hòa nhập tinh thần dân
tộc vào đời sống đạo), người Công giáo Việt Nam đã gầy dựng được gia sản Thánh
Ca phụng vụ phong phú ca tụng Thiên Chúa là Chúa Xuân và hồng ân mùa Xuân Ngài
ban xuống cũng như tình yêu gia đình của cha mẹ, con cái. Nhạc Xuân Công giáo
tuy là âm nhạc tôn giáo nhưng luôn đậm nét dân tộc tính và không kém phần nghệ
thuật. Tiếc là không thể trình bày bằng âm thanh sống động. Chỉ xin trích ra đây
một vài viên ngọc trong vườn hoa đầy hương đó:
“Ba trăm sáu
mươi lăm ngày đã lướt trôi,
(Nguyễn Lý, Xuân Nguyện)
Mình Cha là bền
vững ngàn năm luôn mới …”
“Xuân
đã về trên quê hương và khắp ruộng đồng.
Thi sĩ Hàn Mặc
Tử cũng đã xuất thần trong những bài thơ của ông ca ngợi mùa Xuân Công giáo:
Xuân đã về, xuân
hy vọng, mùa xuân vinh quang.
Xin Chúa Trời cho
quê hương Việt Nam thái bình,
Để mọi người cùng
hiệp nhất trong niềm tin yêu.”
(Nguyên Kha,
Xuân Hy Vọng)
“Trời hôm nay
bình an như nguyệt bạch,
Đường trăng xa,
ánh sáng tuyệt vời bay …
Đây là hương quý
trọng thắm trong mây,
Ngời phép lạ của
đức tin kiều diễm:
Câu tán tạ không
khen long cả phiếm,
Bút xuân thu mùa
nhạc đến vừa khi
Khắp mười phương
điềm lạ trổ hoài nghi:
Cây bằng gấm và
lòng sông toàn ngọc.”
(Đêm Xuân Cầu Nguyện)
Một vài nét chấm
phá về ba ngày Xuân trong truyền thống Công Giáo Việt Nam
Người viết thành tâm kính chúc quý độc giả một năm mới khang an và tràn đầy ơn
lộc của Chúa Xuân:
Nguyện phúc lộc
Chúa Xuân hằng ngự trị
Trong cõi lòng và
khắp cả nơi nơi.
Nguyện phúc lộc
Chúa Xuân hằng ngự trị
Khắp không gian
cho đến mãi muôn đời.
(Xuân
Bính Tý 1996 – đăng trên New York Thời Báo 1996)
Tết về nguồn
Lại một tân niên đến nữa rồi
Hàng năm, khi
tuyết bắt đầu nặng hạt, phủ kín đường đi, mây xám giăng đầy ngoài ngõ, lòng tôi
cũng cảm thấy nao nao: lại thêm một cái Tết tha hương. Nhà văn Mường Giang, gốc
Phan Thiết, cũng đã ngậm ngùi thốt lên:
Cõi lòng nhung nhớ mãi không thôi.
Ai nơi cố quận mừng Xuân đến,
Kẻ tại quê người xúc tuyết rơi.
Một nhánh mai vàng cho đúng phép
Vài ly rượu nhạt để quên đời.
Ngồi đây mà nhớ ngày xưa ấy,
Biết đến bao giờ Tết thật tươi?
Xuân về trên đất
khách
Những
câu thơ ấy thật là thấm thía cho mỗi một người chúng ta đang ngồi đây, trong
cảnh tha hương. Trong đĩa VCD Xuân Nhớ Mẹ, nhạc phẩm Xuân Tha Hương, Xuân Lạc
Xứ, ca sĩ Chế Linh đã ảo não oán than:
Ta ngồi đón mông
lung
Hắt hiu đêm trừ
tịch
Một mình uống
rượu suông
Để rồi: Soi
gương chợt thấy lạ
Sau một đêm đợi
chờ!Xuân phương này:
Xuân về mấy ai vui … Xuân phương này: Xuân lạc xứ lưu vong …
Kính
thưa ông bà và anh chị em,
Xuân đã đến,
không đến với những cánh én bay ngập trời. Xuân cũng không đến với những cành
mai tươi màu rực rỡ. Xuân lại càng không đến với cảnh “ngựa xe như nước, áo quần
như nêm” (Nguyễn Du). Nhưng Xuân Canh Thìn 2000 này lại đến với chúng ta trong
cảnh tha hương, lạc xứ, lưu vong. Văn nghệ, sắm Tết như ở các vùng trời nắng ấm
Cali,
Houston, New Orleans không đủ bù đắp cái thiếu vắng một không khí Tết trên quê
hương, nói chi đến vùng Đông Bắc lạnh giá này. Họa chăng chỉ có một hai đêm quây
quần bên nồi bánh tét cộng đoàn may ra còn có chút hơi ấm trong cái lạnh chết
người của mùa đông xứ lạ.
Xuân không đến
ồn ào, nhưng lại đến âm thầm ray rứt. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta quên
Xuân vì Xuân là Xuân muôn đời, vì Tết là Tết dân tộc, Tết cha ông, Tết quê
hương. Anh chị em thân mến, có thể nói được rằng: bao lâu còn người Việt, bấy
lâu còn Tết Việt.
Hãy trân trọng
và làm sao để cho cái Tết, dù là một cái Tết nghìn trùng xa cách đất Mẹ thân
thương, có một ý nghĩa ngày Tết thật sự. Nói tóm lại, năm nay, Tết con Rồng 2000
phải là một cái Tết về nguồn.
Nhìn về dĩ vãng
trên quê hương yêu dấu, không khí Tết đã tràn lan khắp không gian ngay từ đầu
tháng Chạp. Ngay từ thời Hồng Bàng, buổi bình minh lập quốc, người Việt dù chất
phác, đơn sơ, cũng đã cảm thấy sinh tình trước sự hồi sinh của vạn vật sau những
ngày mùa đông lạnh lẽo rét mướt trên đồng bằng miền Bắc ngày xưa. Từ đó đã nẩy
sinh ra ngày Tết như một phong cách đón chào thiên nhiên đổi mới và cũng là một
dịp vui chơi sau bao ngày làm lụng vất vả trên ruộng cũng như dưới nước.
Những ngày Tết
trước hết là để cảm tạ Thượng Đế đã gìn giữ an toàn trong suốt năm qua và
nguyện cầu Đấng Tối Cao luôn phù hộ trong năm mới. Sau nữa Tết cũng là một dịp
để nhớ đến ông bà tổ tiên đã quá vãng và nguyện cho các bậc trưởng thượng
trong gia đình còn sống được luôn trường thọ. Đó là ý nghĩa báo hiếu của những
ngày Tết. Ba ngày Xuân cũng là dịp đoàn tụ gia đình: cha mẹ, con cái,
cháu chắt xum họp đầy nhà, dù ở xa cũng lo thu xếp để gọi là về quê ăn Tết.
Mọi nợ nần, ân
nghĩa cũng như tiền bạc, đều được cố gắng thanh toán trước đêm giao thừa. Ai có
lỗi phải gì cũng cố gắng làm hòa với nhau.
Thêm vào đó, Tết
cũng là một cơ hội cho tình yêu nẩy nở, là dịp cho trai gái tỏ tình, mong
một ngày nào đó sẽ nên duyên cầm sắt. Vân vân và vân vân …
Nếu nói cho trọn
vẹn và đầy đủ ý nghĩa ngày Tết dân tộc thì chắc chắn sẽ không bao giờ hết. Chỉ
xin gợi lên một vài chấm phá để gọi là về nguồn và rồi trả lời cho câu hỏi:
Trong cảnh tha hương, chúng ta
ăn Tết như thế nào để gọi là cho đúng với tinh thần dân tộc?
Kính thưa anh
chị em,
Tết
là tri ân:
Hãy biết ơn Thiên Chúa đã thương gìn giữ bảo bọc ta trong suốt năm qua.
Tết
là hy vọng:
Xuân về, hy vọng vạn điều nên thiện
hảo;
Lại nữa, sống
trong cảnh xa đất Mẹ thân yêu, còn có gì quý hơn tình đồng hương? Hãy
trân trọng với nhau, hãy tự hào vì nhau, hãy tương trợ lẫn nhau vì cùng là con
một Mẹ Việt Nam.
Xa quê hương nhưng không quên nguồn cội.
Tết đến, nguyện cầu trăm họ được an
bình
Tết cũng phải là
một dịp vui tươi.. Hãy cất qua một bên những sầu muộn để vui, vì quà tặng
thời gian mà Chúa Xuân ban cho. Có giận ai, có bất bình với ai, hãy nở nụ cười
thân ái, khoan dung, không giả tạo nhưng đầy ắp tình người.
Tết là báo
hiếu: hãy nhớ đến ông bà tổ tiên và các bậc sinh thành để thầm hứa sẽ mãi
mãi sống xứng đáng là con, là cháu của các vị, tràn đầy đức Tin và lòng dũng
cảm, hăng say trong cuộc sống, hy sinh không mong đền đáp …
Trong bài Phúc
âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng bận rộn như một người Việt trong ba ngày Tết. Nhưng
Ngài không bận rộn vì phải lo đi mừng tuổi hay đi chùa chiền, nhà thờ để cúng
vái hay lễ lạy, nhưng Ngài bận rộn vì phải lo đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành
các bệnh tật. Trong năm mới này, chúng ta cũng hãy tự cho mình thêm một chút
bận rộn để giúp những anh chị em đồng hương đang cần đến thời giờ của mình,
làm những việc cần làm để góp sức xây dựng cộng đoàn mỗi ngày một thăng tiến,
dành thêm một vài phút đồng hồ để cầu nguyện cùng Thiên Chúa, bận rộn hơn nữa để
chăm sóc gia đình, con cái …
Kính thưa anh
chị em,
Để hưởng một cái
Tết hải ngoại, thiết tưởng không dễ vì thiếu cái không khí thật sự của cỏ non,
nắng tươi, hoa xuân, lời chúc tuổi, … Nhưng nghĩ cho sâu thì Tết hải ngoại cũng
không khó vì không có những chuyện nhức đầu:
“Tết nhất làm
chi? Ai bày! Tết nhất làm chi? Lo quần, lo áo, lo đi chạy tiền!” (Ban nhạc AVT)
Mà
chỉ cần vài cú điện thoại tình nghĩa, cùng chung nồi bánh tét và văn nghệ cộng
đoàn bỏ túi cùng vài chuyện linh tinh khác. Vì thế, đã là không khó thì hãy cố
gắng ăn một cái Tết tối thiểu là Tết Việt, Tết về nguồn: tràn đầy tình
người, tình đồng bào, tình cộng đoàn, tình gia đình, và dĩ nhiên, một cái Tết
tràn đầy hồng ân của Thiên Chúa trong Năm Thánh 2000 nầy.
Mong sao:
Đinh Mão mang đi cơn gió lạnh
(Giảng lễ mồng
Hai Tết – Rockaway, NJ – 6/2/2000
Canh Thìn góp lại chút tình nồng.