Chúa nhật tuần IV / C
Dàn bài:
Bị coi thường vì đã quá quen
. So sánh với CƯ: Bà góa tiên tri Elia - tiên tri Naaman
. Phản ứng tiêu cực: đòi giết
--
2 chi tiết
1. Nặn TC theo ý mình: con bò vàng - đòi hỏi Chúa theo ý mình.
2. quá quen với Chúa, coi thường giáo lý, nói hoài nói mãi, nhàm tai. Lời thật
mất lòng
. cha Diệp, cha Long: ng. Lương nhiều hơn
+++ sống thật lòng mình như Chúa Giêsu, chấp nhận bị khinh khi, bị chê bai, tẩy
chay.
. Chúa không làm phép lạ vì họ đóng cửa lòng.
Bài số 1
(Vĩnh Phước 2022)
Cái nhìn cũ không thể nhận ra và đón nhận Đức Giêsu
“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.” Dân làng
Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này là
con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao,
vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin
được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một
người đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.
Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời
đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ.
Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu?
Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng
quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một
lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó.
Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng
đi được, những người đó khổ như thế nào.
Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám
năm, và được Đức Mẹ đích thân dạy dỗ, có lần có người hỏi cô về số phận của
những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần Đức Mẹ cho
biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các
thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi Giáo. Nghe câu
trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời:
“Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy”. Sau đó Đức Mẹ giải
thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia rẽ nhau ở
trần gian. Người Hồi Giáo và Chính Thống Giáo cũng một thể như người Công Giáo,
đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái Mẹ.
Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người đều bình đẳng
trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công Giáo là đủ để được
cứu rỗi … Những người không Công Giáo không phải là những thụ tạo kém hơn đâu.
Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần chung cuộc là
sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến cho hết mọi
người không trừ ai. Chúa Giêsu Con Mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân loại trên địa
cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự
lựa chọn của chính họ.
“Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng mở với mọi
người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một người. Một
người qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể họ
không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Theo kinh
nghiệm sống, điều này rất khó xảy ra, nhưng khó không có nghĩa là không
có. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chị Maria Magdala là một điển
hình.
Năm mới, xin cho chúng ta có cái nhìn “mới” về con người, đặc biệt những
người vẫn sống với chúng ta, để chúng ta lạc quan và trông cậy vào Thiên
Chúa hơn.
Bài số 2
“Người nhà đã không tiếp nhận Ngài”
Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc tông đồ tại miền
quê xứ Galilê, Chúa Giêsu trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi dưỡng
và lớn lên trong mái ấm gia đình dưới sự chăm sóc của Mẹ Maria và thánh Giuse.
Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống lại, Ngài dừng
chân tại Capharnaum. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng sau đó, một mình
Ngài trở về thăm quê, và dự một buổi thờ phượng nhằm ngày sabát. Được mời lên
tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.
Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống lại vẻ dịu dàng
của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ cũng không
thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ thái độ không tin bằng một câu
hỏi: “Không phải ông ấy là con bác Giuse sao?”. Ý họ muốn nói: “Đây không phải
là người thân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều quen biết,
chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh
ta không thể là Đấng Messia được!”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không làm
trước mặt họ những phép lạ mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi Ngài trích dẫn câu tục
ngữ: “Thầy lang ơi! hãy chữa lấy mình!” là Ngài có ý nói: “Hãy chứng thực lời
tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác, nếu anh muốn chúng tôi
nhận anh là Đấng Kitô”. Chúa cũng trích dẫn câu tục ngữ khác cắt nghĩa đầy đủ
hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có tiên tri nào được sủng mộ nơi
quê quán mình!”. Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể
nhận biết được sự vĩ đại của các vĩ nhân đó. “Quen quá hoá lờn” (Bụt nhà không
thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo tiêu chuẩn giả dối,
theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ mà họ tưởng họ
từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm tàn hại cho đời
sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn hữu, của cơ hội
để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng bi đát trên sứ vụ
của Chúa Giêsu. Người ta chối bỏ Ngài vì những lý do hết sức nông cạn và điên
rồ. Họ tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen thuộc với tên Ngài từ lâu, trong
khi thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vị Ngài và quyền năng của
Ngài.
Thái độ của khán giả trở thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu
Ước, cả hai đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài, nhưng
họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn sủng do chức vụ của Ngài đem lại hơn những người
ngoại. Ngài tự sánh ví mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ân phúc lớn cho người
ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel vẫn không nhận được ơn
vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy, các dân tộc trên thế giới sẽ nhận được ân phúc do
Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không
tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy. Điều làm họ tức giận là
Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng chỉ có mình họ là dân
của Thiên Chúa, cho nên họ khinh thường các dân tộc khác. Họ tin rằng “Chúa đã
dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hoả ngục”. Thế mà giờ đây, chàng
thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại
được Thiên Chúa ưu đãi. Họ nổi xung lên, đuổi Chúa Giêsu ra khỏi thành và toan
làm hại mạng sống Ngài.
Ngay từ khi mới sinh ra, Chúa Giêsu nhận được một định mệnh “Ngài có mệnh làm cớ
cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối”
(Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.
Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình, thánh Gioan tông đồ
đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà người
nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn nhất là cho
Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ phải mở
rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người đi xa trở
về, người đã làm nở mày nở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.
Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lập lại, nhiều người có cơ hội để biết
Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ được
hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh như Naaman nhờ lời
của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những
về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ quát của chức vụ ấy nữa.
Ngài đến để thoả mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả thế gian.
Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám
năm, và được Đức Mẹ đích thân dạy dỗ, có lần có người hỏi cô về số phận của
những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần Đức Mẹ cho
biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các
thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi Giáo. Nghe câu
trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời:
“Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy”. Sau đó Đức Mẹ giải
thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia rẽ nhau ở
trần gian. Người Hồi Giáo và Chính Thống Giáo cũng một thể như người Công Giáo,
đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái Mẹ.
Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người đều bình đẳng
trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công Giáo là đủ để được
cứu rỗi … Những người không Công Giáo không phải là những thụ tạo kém hơn đâu.
Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần chung cuộc là
sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến cho hết mọi
người không trừ ai. Chúa Giêsu Con Mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân loại trên địa
cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự
lựa chọn của chính họ.
Bài số 3
Trong Tin mừng ngày hôm nay, chúng ta thấy một phản ứng đáng kinh ngạc về phía
nhũng người trong cuộc. Trong hội đường của Nazareth, Chúa Giêsu tuyên bố rằng
Ngài là người mà mọi người đã chờ đợi, SỰ THÀNH TOÀN của tất cả những hy vọng
của họ. Nhưng khi Ngài nói lên sự thật, họ trở nên bực mình. Trong thực tế, họ
đã phản ứng một cách điên cuồng đến mức họ đã đẩy Jesus ra khỏi hội đường và tìm
cách giết Ngài.
Dường như mọi người không nhận ra Chúa Giê-su là ai. Họ KHÔNG thể tin rằng cậu
bé quê hương này là Đấng cứu thế. Chính xác hơn, họ có những ý tưởng riêng về
những gì họ muốn về Đấng Thiên Sai. Họ mong đợi Ngài sẽ trở thành một nhà lãnh
đạo chính trị, một nhà chinh phục quân sự, một nhà cải cách xã hội - một người
có thể nói lên tất cả những sai lầm chính trị, quân sự và kinh tế thời đó. Họ đã
từ chối Chúa Giê-su vì Ngài không phù hợp với quan niệm của họ về những gì họ
muốn Ngài trong cái nhìn của họ.
Đây không phải là lần đầu tiên trong lịch sử Do Thái xảy ra một sự từ chối như
vậy. Bài đọc đầu tiên là từ tiên tri Jeremiah, người được sinh ra khoảng 650 năm
trước Chúa Kitô. Khi được Thiên Chúa sai đến để nói lên sự thật với những người
cùng thời, ông đã gặp phải sự phản đối nghiêm khắc từ người dân, các tư tế và
chính nhà vua. Dân chúng phạm tội thờ ngẫu tượng, và từ chối chấp nhận Thiên
Chúa được Giê-rê-mi rao giảng. Ông bị cầm tù, bị sỉ nhục và cuối cùng chết lưu
vong.
Hiện tại có giống ngày xưa không? Chúng ta có phải là người Công giáo thực sự
chấp nhận Thiên Chúa như Ngài không? Đó là một cám dỗ thực sự để cố gắng NẶN LÊN
một Thiên Chúa đáp ứng mong muốn của chúng ta thay vì nhu cầu của chúng ta.
Không phải lúc nào cũng dễ dàng chấp nhận Thiên Chúa như Ngài. Có lẽ câu trả lời
nằm trong những gì chúng ta ước vọng trong cuộc sống.
Chúng ta muốn những điều tốt đẹp: một ngôi nhà thoải mái, một chiếc xe đẹp, tivi
màu, thức ăn ngon. Hoàn toàn có quyền ước mong cho những điều đó, nhưng nếu
chúng ta không có được chúng, chúng ta không được đau khổ. Chúng ta phải nhớ
rằng Chúa Giêsu sinh ra nghèo khó, sống nghèo và chết nghèo. Tiền rất quan trọng
trong xã hội này nhưng nó không được là mục tiêu tối hậu cho cuộc sống.
Tất cả chúng ta đều muốn sống hài hòa với những người khác. Nhưng nhiều khi
chúng ta lại không thích khi có người không đồng ý với chúng ta hoặc làm cho
chúng ta trở nên khó chịu.
Khi có những những bi kịch xảy ra - một cái chết bất ngờ, một sự mất mát tài
chính to lớn, một sự thất vọng nặng nề về con cái, chúng ta tự hỏi tại sao Chúa
lại bỏ rơi chúng ta. Chúng ta không muốn Chúa đối xử tệ với chúng ta. Nhưng hãy
nhớ rằng Chúa luôn ở đó để ở bên chúng ta. Kế hoạch của Người thật là bí ẩn và
chỉ cần kiên nhẫn với Người như Người vẫn luôn luôn kiên nhẫn và ở bên chúng ta.
Chúa cho chúng ta những gì chúng ta cần. Ngài ban cho chúng ta đức tin, khả năng
nhận biết Ngài và yêu mến Ngài. Ngài ban cho chúng ta tất cả những ân sủng mà
chúng ta cần để yêu thương đồng loại như anh chị em của chúng ta. Ngài ban cho
chúng ta Con Một của Ngài. Ngài ban cho chúng ta mọi phương tiện để sống đời
đời. Nhưng chúng ta không thể tạo ra một Thiên Chúa theo sở thích hay ý muốn của
chúng ta.
Người Do Thái hay đúng hơn người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối Ngài vì
học nghĩ rằng họ quá biết rõ về Ngài. Đối với chúng ta, nhiều lúc xem ra Chúa
Giêsu cũng bị đối xử như thế: chúng ta quá quen thuộc Ngài vì ngay từ nhỏ chúng
ta cũng đã nghe về Ngài nhiều lần, nhiều lúc. Từ đó giáo huấn của Ngài cũng như
là nghe nhiều rồi, cứ nói hoài! Chúng ta ít được đánh động và ít khi nhận ra sự
hiện diện của Ngài trong cuộc sống. Những người đi hành hương đến kính viếng cha
Trương Bửu Diệp hay đi nghe cha Long thuyết giảng về lòng thương xót Chúa hay
nói rằng: Người không Công Giáo đi nhiều lắm và họ được nhiều ơn hơn người có
đạo. Phải, nhiều khi kẻ ngoại lại tin mạnh hơn người ở trong.
Hãy sống và làm chứng rằng tôi tin Đức Giêsu người Nazareth là Thiên Chúa và là
Đấng Cứu độ tôi và tôi nhất quyết sống theo lời Ngài.
*/*