Chúa Nhật IV Mùa Chay – Năm C
 

1. BÀI HỌC VỀ NHẬN THỨC CHÂN THÀNH CỦA
NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG

 
Jaime L. Waters

Chúa Nhật IV Mùa Chay năm C
Gs 5,9a. 10–12; 2 Cr 5,17–21; Lc 15,1–3. 11–32
 
Các bài Tin mừng Chúa nhật III và IV Mùa Chay bổ túc cho nhau. Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu kêu gọi phải ăn năn để được tha thứ tội lỗi, và hôm nay chúng ta được nghe dụ ngôn đứa con hoang đàng cũng xoay quanh những chủ đề này. Chúa nhật IV Mùa Chay là Chúa nhật Laetare (Mừng vui), và thánh lễ hôm nay truyền cảm hứng cho chúng ta lắng nghe Phúc Âm dưới ánh sáng của niềm vui đến từ việc sám hối và ơn tha thứ.

Câu chuyện bắt đầu với một người cha có hai cậu con trai. Người em đòi quyền thừa kế của mình, rồi tiêu pha hết mọi thứ để rồi phải vật lộn để nuôi sống bản thân. Ăn năn về hành động hấp tấp của mình, anh ta quay về nhà và nói: “Thưa cha, con đã lỗi phạm với trời và với cha. Con không còn xứng đáng được gọi là con trai của cha nữa”.

Câu nói cho thấy nhận thức chân thật của người con này rất đáng chú ý. Đầu tiên, anh ta thẳng thắn thừa nhận hành vi tội lỗi của mình, và nhận trách nhiệm về cách cư xử đó nên quay trở về nhà. Anh cho biết ai đã bị tổn thương vì mình: người cha và Thiên Chúa. Sự trung thực của người con thứ là mẫu gương cho những gì chúng ta phải làm khi ăn năn tội lỗi — biết rõ những thiếu sót của chúng ta, nhận ra những người đã bị tổn tương và cầu xin sự tha thứ. Hơn nữa, sau đó việc anh thừa nhận mình không còn xứng đáng được gọi là con của cha đã thể hiện sự khiêm tốn trước những sai lỗi của bản thân. 

Rõ ràng là người con đã phạm tội với cha mình, khi rời bỏ cha để “trẩy đi phương xa, ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Người con thứ đã đòi tài sản thừa kế trước thời hạn và sau đó đã dùng sai mục đích. Việc khẳng định mình đã phạm tội chống lại Thiên Chúa là điều quan trọng, vì nó nhắc nhở chúng ta rằng các vấn đề và sự lạm dụng trong những liên hệ của chúng ta với tha nhân làm căng thẳng mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.

Người cha và người anh cả có hai phản ứng trái ngược nhau, và chúng ta nên xem xét cách mình đáp trả đối với người cần sự tha thứ. Người cha là mẫu mực của sự cởi mở. Khi thấy con trở về, ông chạnh lòng thương, giống như Đức Giêsu khi Ngài đáp lại những người đang gặp khó khăn. “Ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”. Tiếp sau sự chào đón nồng nhiệt này là một bữa tiệc mừng người con trở về.

Người con trai cả thì phản ứng gay gắt – dù cách đáp trả có vẻ hợp lý. Anh ta phê phán cả cha lẫn em trai của mình. Anh đặt câu hỏi và chỉ trích lòng thương xót của cha và tự hỏi tại sao anh không bao giờ nhận được những điều như vậy. Anh chỉ trích những hành động lãng phí của em trai, kẻ đã phung phí tài sản của cha nhưng lại được cha mở tiệc mừng. Anh dường như từ chối sự ăn năn trở về khi em mình quay lưng lại với tội lỗi.

Người cha trả lời với vẻ trầm ngâm, và câu trả lời này nói lên lý do tại sao chúng ta nghe dụ ngôn này vào Chúa nhật IV Mùa Chay. Các dụ ngôn trước câu chuyện này tập trung vào việc tìm kiếm đồ vật bị mất, một con chiên và một đồng xu, và mỗi câu chuyện kết thúc bằng lời kêu gọi hãy vui mừng hoặc tìm thấy niềm vui khi tìm thấy những gì đã mất. Việc người cha hân hoan ăn mừng là một lời tuyên bố rằng việc hoán cải thì đáng ăn mừng, vì đó là dấu chỉ cho sự biến đổi và lớn lên. Bằng cách hạ mình để trở về nhà phục vụ cha, người con thứ đã nhận ra lỗi lầm và sửa đổi. Việc hân hoan vui mừng không chỉ vì anh trở về mà còn vì những gì tượng trưng hiện có, một bước ngoặt đưa anh đến gần hơn với cha mình và với Chúa. Việc tuyên bố người con trai đã chết nhưng nay lại sống cho thấy cuộc sống mới đến từ sám hối và sự tha thứ.

Dụ ngôn không cho chúng ta thấy phản ứng của người anh cả. Anh có bị thuyết phục để chấp nhận sự trở về của em mình hay tiếp tục từ chối người em cũng như việc sẵn lòng tha thứ của người cha? Những tương quan này có trở nên sâu sắc hơn hay là những tương tác trong gia đình bị căng thẳng hơn? Hy vọng rằng trong cuộc sống, chúng ta hãy noi gương người con thứ và người cha, biết cầu xin sự tha thứ khi chúng ta phạm tội và đáp trả sự trở về với lòng thương xót và tình yêu thương.

 

2.
NGƯỜI CHA PHUNG PHÍ

Ba câu mở đầu bài Tin Mừng là lời dẫn nhập cho “ba dụ ngôn về lòng thương xót”: con chiên lạc tìm được, đồng tiền đánh mất tìm được, đứa con đi hoang tìm được. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giê-su kể để tự biện hộ về những quan hệ chướng tai gai mắt (đối với phái Pha-ri-sêu và giới kinh sư) mà Người vẫn thường có với những “kẻ tội lỗi”.

“Một người kia có hai con trai…” Ta thường có thói quen xấu là chỉ chú ý tới nửa đầu của dụ ngôn, phần nói về đứa con thứ và coi nó như nhân vật chính, nên đã đặt tên cho câu chuyện là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Thế nhưng, ông cha mới là người hùng của câu chuyện. Chúng ta sắp nghe không phải dụ ngôn “Người con phung phá” (phung phá của cải: fils prodigue/prodigal son) song là “Người cha phung phí” (phung phí tình yêu: père prodigue/prodigal father, xin xem trên mạng), một vở kịch hai màn: cuộc “tranh chấp” giữa một người cha với 2 đứa con, cả hai đều được yêu mến như nhau, yêu mến điên cuồng, mặc dầu chẳng có đứa nào xứng đáng với tình yêu đó cả! Một câu chuyện tình yêu vô cùng cảm động (theo đại văn hào Charles Dickens), một hình ảnh đẹp nhất của Cha trên trời!

1- Thái độ của người cha đối với đứa con thứ

Đứa con này chỉ là một tên trục lợi: nó đòi tiền bạc, rất nhiều tiền bạc. Nó chỉ nghĩ tới mình. Nó nhận tất cả từ cha, nhưng chẳng hề biết ơn cha, mà chỉ nghĩ một chuyện: đòi hỏi, yêu sách… Phần người cha thì hoàn toàn trái ngược. Ông chỉ là cho không, chia sẻ vô vị lợi, tôn trọng tự do người khác, tóm lại chỉ là tình yêu! Hình ảnh của Thiên Chúa!

Đứa con thứ chính là hình ảnh mà phái Pha-ri-sêu vẫn thường vẽ lên về những “kẻ tội lỗi”: a/ Là đứa con nổi loạn, đòi độc lập tự chủ, y quả tượng trưng chủ nghĩa vô thần của mọi thời: hưởng dùng các “ân huệ” của Thiên Chúa nhưng chẳng thừa nhận Thiên Chúa, còn sống xa Người, muốn làm mọi chuyện mà chẳng bị ai kiểm soát cả: “Không Chúa không chủ!” Điều đó đặc biệt đúng với hôm nay! b/ Hơn nữa, đối với Pha-ri-sêu, đứa con Ít-ra-en này đã xuống tới đáy ti tiện đê hèn. Nó đã bán thân làm nô lệ cho một người ngoại, thành thử chẳng còn giữ ngày sa-bát cũng như các tập tục về thanh sạch: nó chăn heo, con vật nhơ bẩn, ghê tởm, bị cấm đoán. c/ Hơn nữa, dầu chỉ xét về mặt con người, sống như thế cũng không hợp luân lý: đây là một tên phóng đãng, một loại người hạ đẳng, biến chất, trở lùi lại thú tính. Nó sống như một loài heo: kiếm tiền, ăn nhậu, làm tình… chỉ biết đến cái tôi, thuần mơ chuyện hưởng thụ…

Ta quả là tô vẽ nó khi trình bày nó như kẻ nay biết ăn năn tỉnh ngộ. (Xin nhớ lại vài thánh ca thống hối, cảm hứng từ dụ ngôn và năng được hát trong mùa Chay này). Không, đứa con thứ vẫn chẳng có thần nào khác ngoài tư lợi ích kỷ: đổ cho đầy bụng! Việc nó trở lại nhà chỉ là một tính toán đê tiện nhằm tìm lại chỗ trú và bàn ăn. Chẳng thấy nó tự nhủ sao: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” Câu nói hoa mỹ, nghe rất lâm ly bi đát (“Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”), chỉ là một màn kịch soạn sẵn nhằm làm mủi lòng người cha mà nó nghĩ là sẽ la rầy, trừng phạt nó đích đáng và… chính đáng. Có đứa con nào đi xa nay trở về thăm cha mẹ mà lại chuẩn bị trước những câu nói vốn sẽ tự nhiên trào ra tận đáy lòng một khi trông thấy quê nhà dấu yêu? Đứa con thứ xót bụng hơn đau lòng! Nó đúng là một tên khốn khiếp, nạn nhân của các bản năng, của lũ bạn bè quý hóa: nó đã đánh mất tập quán yêu thương, chỉ còn biết nghĩ tới chính mình. Lạy Chúa, đó là hình ảnh của con. Con thường sống như vậy!

Thằng con trở về với ý đồ đê tiện. Nhưng khi “nó còn ở đằng xa”, còn chưa mở miệng thì người cha đã làm tất cả. Bốn cử chỉ: “ông đã trông thấy…”, “ông chạnh lòng thương…”, “ông bổ nhào ra…”, “ông ôm cổ nó và hôn lấy hôn để”. Cử chỉ chạy bổ nhào ra có lẽ là cử chỉ mạnh nhất của toàn thể dụ ngôn. Trong tập quán của mọi thời, không có chuyện một người trên chạy tới với một người dưới, nhất là khi kẻ dưới này có một thái độ đáng trách. Đây lại là một ông già Đông phương sang quý đường bệ, lúc nào cũng ăn nói và đi đứng khoan thai từ tốn.

Vâng, ta bóp méo hoàn toàn dụ ngôn của Đức Giê-su khi trình bày cuộc trở về của đứa con này như mẫu gương “hoán cải”. Nếu ở đây Đức Giê-su chỉ mô tả sự “thống hối” của một tội nhân, giáo huấn này đã chẳng gây cho phái Pha-ri-sêu và giới kinh sư nỗi khó chịu. Tại Ít-ra-en, người ta đã biết từ lâu, toàn thể Kinh Thánh làm chứng, là Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân hoán cải. Nhưng thái độ của người cha ở đây còn đi xa hơn nhiều: ông không mảy may lưu ý xem thằng con biểu lộ một lòng thống hối đích thực hay giả tạo. Ngay khi nó còn ở đằng xa, ông đã chạy ra gặp nó. Đức Giê-su không nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, trên những cử chỉ thống hối đền tội của nó, nhưng trên tình yêu vô vị lợi của người cha… một người cha đã tha thứ vô điều kiện, trước khi đứa con thú lỗi! Đức Giê-su nói cho ta biết “làm con” là gì: trước hết đó không phải là có thái độ thế này thế kia đối với cha hay mẹ… nhưng là được cha và mẹ thương yêu, cho dù mình xứng đáng hay bất xứng! Đó đã là mạc khải của ngôn sứ Hô-sê: Thiên Chúa tiếp tục yêu thương cô vợ bất trung bất tín của Người (Hs 3,1; 11,1-9; 14,5-9). Hỡi những ai tự nhận là vô thần, những ai đang sống như kẻ vô thần, những ai đã xa lìa Thiên Chúa vì tội lỗi, Đức Giê-su nói với quý vị: “Cho dẫu bạn không tin Thiên Chúa lẫn yêu mến Người, Người cũng chẳng bao giờ ngừng tin và yêu bạn!” Ta hiểu vì sao những kẻ tội lỗi đã chạy đến cùng Đức Giê-su !

Trong vòng tay cha, thằng con bắt đầu tụng lên câu nói đã dọn sẵn, nhưng ông không để nó kết thúc. Ông chẳng cần biết nó dối trá hay chân thành. Ông chỉ biết nó là con ông và ông là cha nó. Trái tim tràn tình yêu của ông khiến ông đổ đầy nó bằng tặng phẩm! Đây quả thực là một lễ cưới: áo, nhẫn, giày, tiệc, ca nhạc, quả thực là nghi lễ phục hồi chức vị làm con. Ông lăng xăng chạy từ nhà trên xuống nhà dưới, từ đầu sân đến cuối sân, hối thúc gia nhân dọn tiệc. Niềm vui của ông thật vỡ bờ. Nếu có hình dung sự hoán cải của thằng con đểu giả thì chính là lúc này đây, khi nó đứng giữa sân như trời trồng rồi khóc lên sung sướng vì nhận thấy tất cả tình thương bao la vĩ đại của cha. Nhưng đó không phải là điều tác giả dụ ngôn muốn đề cập.

Tình thương của người cha được cô đọng trong câu: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đây là điệp khúc chấm dứt màn nhất của vở kịch. Lát nữa ta sẽ gặp lại nó cuối màn hai với vài từ thay đổi. Chết-sống… Thất lạc-tìm lại… Cái chết nào đối với Đức Giê-su đây? Mạc khải nào Người muốn đưa ra cho nhân loại đây? Thưa rằng: xa Thiên Chúa, đó là chết, đó là đánh mất chính mình! Con người chỉ hiện hữu thật sự trong mối tương quan với Thiên Chúa thôi. Người ta có thể tưởng mình sống, thế mà đã chết trong thực tế.

Nhưng khi phàm nhân trở về, thì “cuộc liên hoan” của Thiên Chúa bắt đầu, “niềm vui” của Thiên Chúa nở rộ! Hoán cải, đó là đơn giản đi vào niềm vui của Thiên Chúa. Đấy chính là chuyện mà anh con cả sắp khước từ.

2. Thái độ của người cha đối với đứa con cả.

Đối với đứa con cả, người cha cũng biểu lộ một lòng tốt như thế: ông ra gặp chàng trước… và năn nỉ chàng… Kinh Thánh thường trở đi trở lại trên chủ đề này, chủ đề về tính nhưng không tuyệt đối của các hồng ân Thiên Chúa, qua hình ảnh con thứ thay thế con cả (x. St 27,36; 2Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4), hình ảnh “những người thợ giờ cuối cùng” cũng được trả công bằng “những người thợ giờ thứ nhất” (x. Mt 20,8), hình ảnh “những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu” (x. Lc 13,30), hình ảnh “lương dân” sẽ thay thế “tuyển dân” (x. Rm 9,30). Tất cả đều nói lên tự do cao vời và tính cánh nhưng không của tình yêu Thiên Chúa.

Đối với đứa con thứ, người cha đã không muốn nghe gì hết. Nay đối với anh con cả, ông để cho chàng mặc sức… trút lên đầu ông bầu tâm sự đầy đắng cay, phẫn nộ. Có lẽ anh cũng có lý của mình. Anh ta chính là chân dung của phái Pha-ri-sêu mà Đức Giê-su muốn khắc vẽ. Câu quả quyết của anh: “Ông coi, đã bao năm trời tôi hầu hạ ông, cùng chưa hề lướt lịnh ông” (lối dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn) quả là đúng với sự thật, làm nổi bật hình ảnh phái Pha-ri-sêu tự hào vì đã giữ trọn Luật (x. Lc 18,9). Thái độ của anh không kể gì đến tương quan anh em nữa (“thằng con của ông”) và nói về em một cách khinh bỉ đúng là thái độ của phái Pha-ri-sêu đối với hạng mà họ gọi là tội nhân. Bản dịch Anh ngữ câu nói của người con cả này còn cho ta một chi tiết lý thú: “Thì ông lại giết con bê chúng ta đã cùng nhau vỗ béo” (you kill the calf we had been fattening). Đúng là chua chát và ghen tức đến cực điểm! Riêng đối với cha, anh đã biến mình thành tôi tớ, biến tình thương thành nô dịch.

Như thế, người con cả cho ta thấy chính trọng tâm của dụ ngôn: anh ta đã không nhận rõ tất cả tình yêu đang bao phủ anh: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây…”. Người cha sửa lại lối nói của người anh một cách tế nhị (“em con đây” đối lại “con ông đó”). Qua dụ ngôn hai màn này, thành thử chúng ta được mời đi vào trong tình yêu của Thiên Chúa, trong niềm vui của Người được gặp lại các tội nhân. Đây là lời loan báo sự hoán cải của lương dân sẽ đi vào trong “dân mới của Thiên Chúa” hàng loạt. Một ngày kia, Lu-ca sẽ đặt trên miệng Phê-rô câu nói này khi nhận ra ân sủng ban cho viên bách quản ngoại đạo: “Vậy nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa” (Cv 11,17). Không, không có ưu đãi: hết thảy đều được Cha trên trời mến yêu.

Và dụ ngôn đứa con thất lạc tìm thấy (hay đúng hơn “người cha phung phí”) kết thúc với cùng một điệp khúc vui tươi như hai dụ ngôn trước (xin xem Chúa nhật 24 Thường niên năm C). Màn hai của dụ ngôn lấy lại câu kết của màn đầu, với việc đổi từ “con ông” bằng “em con” như đã ghi nhận. Thiên Chúa là Cha, đó là điều chắc chắn: Người yêu hết thảy con cái của mình. Nhưng nhân loại có là anh em với nhau không? Phải chăng anh con cả sẽ để mình bị thuyết phục và “đi vào chung hưởng niềm vui với cha”? Chúng ta không biết. Dụ ngôn vẫn bỏ ngỏ. Văn sĩ tài ba Lu-ca lần này xem ra quên viết kết luận cho câu chuyện. Chẳng quên đâu! Vì thật ra chính người Biệt phái, chính chúng ta phải cho nó một kết luận: đi vào cuộc liên hoan với Thiên Chúa, cuộc liên hoan mừng kẻ tội lỗi trở về. Bạn có muốn làm thế không?

~~~~~~~~~~~~